Tổng quan về tiềm năng và quy hoạch định hướng phát triển du lịch của Tỉnh Dak Lak
Tiềm năng phát triển du lịch
Đắk Lắk là tỉnh nằm giữa cao nguyên Nam Trung Bộ, phía đông giáp tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà, phía tây giáp nước bạn Cam Pu Chia, phía nam giáp tỉnh Lâm Đồng, Đăk Nông, phía bắc giáp tỉnh Gia Lai. Nằm trong vùng đất đai rộng lớn với địa hình và khí hậu đa dạng đã tạo ra những vùng sinh thái nông nghiệp thích hợpvới nhiều loại cây trồng, đặc biệt có quỹ đất bazan phù hợp với cà phê, cao su, rừng có trữ lượng gỗ lớn nhất cả nước.
Là một tỉnh trung tâm Tây Nguyên, Đắk Lắk có hệ thống giao thông đường bộ, đường hàng không tương đối hoàn chỉnh, tạo cho tỉnh một vị trí thuận lợi trong giao lưu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và thực sự có tiềm năng phát triển du lịch.
Cảnh quan của Đắk Lắk có vẻ đẹp tự nhiên, đa dạng, phong phú, thơ mộng và hùng vĩ với cấu tạo địa hình thể hiện sự hòa hợp của những dòng sông xen lẫn núi đồi ao hồ, ghềnh thác và những khu vực rừng nguyên sinh tạo nên những thác nước đẹp nổi tiếng, quanh năm mịt mờ sương khói như thác Thủy Tiên, Bảy Nhánh,… nhiều hồ lớn với diện tích hàng trăm héc ta như hồ Lắk, Ea Đờn,…phù hợp cho việc tổ chức các hoạt động du lịch, đặc biệt là hồ Ea Súp thượng với diện tích 1440 ha.
Đắk Lắk còn nổi tiếng với nhiều khu vườn nguyên sinh, khu bảo tồn thiên nhiên đã được quy hoạch như Vườn Quốc gia YokDon, Vườn Quốc gia Chư Yang Sin, khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô,…với nhiều loài động thực vật quí hiếm, đặc biệt là voi.
Đắk Lắk có nhiều di tích lịch sử văn hóa và cách mạng được du khách quan tâm, tìm hiểu như tháp Chăm Yang Prong, Biệt điện Bảo Đại, đình Lạc Giao, chùa sắc tứ Khải Đoan, nhà đày Buôn Ma Thuột, hang đá Ba Tầng, hang đá Đăk Tuôr,…
Thu hút và gây ấn tượng mạnh mẽ cho khách du lịch đến Đắk Lắk không chỉ là những cảnh quan thiên nhiên kỳ thú mà còn bởi Đắk Lắk có một nền văn hóa truyền thống đặc sắc, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, với những bản trường ca Đam San, Xinh Nhã,…những sản phẩm làng nghề truyền thống: dệt thổ cẩm, đan lát điêu khắc, những lễ hội và phong tục độc đáo, âm thanh vang vọng của các loại cồng chiêng, đàn đá, các nhạc cụ làm từ chất liệu của núi rừng, những lời ca, điệu múa của cộng đồng 44 dân tộc anh em, thể hiện tâm hồn cao nguyên đầy trữ tình và cháy bỏng khát vọng yêu cuộc sống.
Thế mạnh du lịch của tỉnh được xác định là du lịch sinh thái và du lịch văn hóa. Bên cạnh đó, được sự quan tâm đầu tư của Trung ương và của tỉnh, ngành du lịchĐắk Lắk trong những năm qua đã có những bước phát triển khá, có quy hoạch tổng thể về du lịch đến năm 2010. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể, các quy hoạch chi tiết và các dự án đầu tư khu du lịch trọng điểm của tỉnh lần lượt được hình thành. Chức năng quản lý Nhà nước và chức năng quản lý kinh doanh được phân định rõ, cơ sở hạ tầng về giao thông đã được tỉnh và Trung ương đầu tư xây dựng mới và nâng cấp, đặc biệt chính sách khuyến khích đầu tư du lịch trên địa bàn tỉnh được ban hành đã thu hút các Nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho hoạt động du lịch phát triển.
Để khai thác tốt tiềm năng du lịch, tương xứng với vị trí chiến lược trên địa bàn trong thời gian tới, tỉnh Đắk Lắk đang được Chính phủ xem xét đưa vào một trong những tỉnh trọng điểm ưu tiên đầu tư cho phát triển du lịch.
Các sản phẩm du lịch
* Du lịch sinh thái dã ngoại:
Du lịch tham quan làng văn hóa, sinh thái quanh các hồ bằng thuyền độc mộc hoặc các phương tiện khác, du lịch vượt sông Sêrêpôk bằng hệ thống cầu treo bắt qua rặng si, tham quan thắng cảnh, các thác nước đẹp nhất Tây Nguyên.
Du lịch mạo hiểm trên hồ, du lịch leo núi.
Du lịch tham quan nghiên cứu rừng và động vật rừng quý hiếm phục vụ bảo tồn tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên và động vật bán hoang dã phục vụ săn bắn du lịch.
Du lịch cà phê: tham quan vườn cà phê, tìm hiểu quá trình chăm sóc, thu hoạch, chế biến…và uống cà phê Buôn Ma Thuột ngay tại vườn cà phê, bên những góc cà phê trĩu quả…
Du lịch sinh thái cuối tuần tại các khu du lịch.
* Du lịch văn hóa:
Các công trình văn hóa, di tích lịch sử, di tích cách mạng đã và đang có kế hoạch sửa chữa, tôn tạo, tu bổ như: Sa bàn chiến thắng Buôn Ma Thuột, nhà đày Buôn Ma Thuột, các bảo tàng lịch sử, Bảo tàng cách mạng sẽ thu hút sự quan tâm của khách du lịch.
Tham quan tìm hiểu tập quán đời sống văn hóa cộng đồng, khám phá nghề truyền thống, săn bắt và thuần dưỡng voi rừng, du lịch trên lưng voi, đám cưới sử dụng voi, thăm bảo tàng voi và trung tâm biểu diễn voi tại Buôn Đôn.
Du lịch lễ hội, tìm hiểu truyền thống lịch sử văn hóa các dân tộc, các làng nghề truyền thống, trò chơi dân gian trong các dịp lễ hội như: lễ hội đua voi tháng 11 hàng năm tại Buôn Đôn...
Văn hóa ẩm thực: Thưởng thức rượu cần, cơm lam gà nướng, cà đắng và các món ăn đặc sản của đồng bào dân tộc như: Núc nác xào, dọt mây hầm chân giò, canh lá bép...
* Du lịch vui chơi giải trí:
Khu tổ hợp vui chơi giải trí tại khu du lịch Buôn Đôn, Lăk, Ea Kao, Công viên nước DakLak…
Du lịch vui chơi giải trí câu cá thư giãn trên hồ Ea Kao, Ea Chư Cáp, xem văn nghệ, biểu diễn xiếc thú.
Dự báo về nguồn khách
Nhu cầu đi du lịch sinh thái, văn hóa đang là xu hướng phát triển nhanh trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Theo dự báo của Tổ chức du lịch thế giới, số lượng khách du lịch quốc tế đến khu vực Châu Á - Thái Bình Dương dự kiến sẽ tăng từ 7 - 9%/năm. Riêng 6 nước tiểu vùng sông Mê Kông (trong đó có Việt Nam) sẽ đạt tốc độ tăng trưởng khách gần 10% cao hơn mức bình quân chung của khu vực; trong số đó, tỷ lệ số khách du lịch lên đến các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, hoặc nơi thiên nhiên hoang dã đã ngày càng tăng.
Tại thị trường Việt Nam, dòng khách du lịch nội địa đang có xu hướng chuyển dịch từ các vùng đồng bằng ven biển về các vùng núi cao nguyên, Vườn quốc gia và các khu bảo tồn thiên nhiên.
Tại tỉnh Đắk Lắk, tỷ lệ dân cư địa phương có nhu cầu và có đủ điều kiện thực hiện các chuyến du lịch đang tăng nhanh, nhu cầu du lịch cuối tuần, du lịch vào dịp hè, dịp lễ đến các điểm du lịch gần tăng vọt trong một vài năm gần đây và sẽ tiếp tục tăng cao trong thời gian tới.
Dựa vào các yếu tố tác động đã nêu trên, dự báo số lượt khách nội địa đến Đắk Lắk chiếm 85 - 90% gồm khách tại địa phương, khách du lịch đến Đắk Lắk với mục đích kết hợp hoạt động thương mại, văn hóa, thăm các khu bảo tồn, vườn quốc gia, khách nghiên cứu, tìm hiểu thiên nhiên, văn hóa, học sinh, sinh viên ở các trường trong tỉnh cũng như các vùng lân cận. Khách du lịch quốc tế chiếm tỷ lệ 10 - 15% chủ yếu là khách trẻ, khách đi tự do và khách nghiên cứu, thị trường khách quốc tế chủ yếu là Châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc và các nước thuộc khu vực ASEAN.
Dự báo khách du lịch đến Đắk Lắk năm 2001 - 2010
DVT: Lượt người
Chỉ tiêu | 2001 | 2002 | 2003 | 2005 | 2010 |
Tổng số khách | 99.448 | 115.812 | 132.455 | 200.000 | 500.000 |
- Khách quốc tế | 5.759 | 9.028 | 9.124 | 15.000 | 50.000 |
- Khách trong nước | 93.689 | 106.784 | 123.331 | 185.000 | 450.000 |
Tốc độ tăng trưởng khách bình quân 17-18%/năm.
Trong đó: Khách quốc tế tăng 20-22%. Khách trong nước tăng 15%.
VƯỜN QUỐC GIA YOKDON
Nằm cách thành phố Buôn Ma Thuột 40km về phía tây, vườn Quốc gia YokDon là một địa danh nổi tiếng, một trong những khu bảo tồn thiên nhiên lớn nhất của Việt Nam, có diện tích 115.545ha, chưa kể 133.890ha vùng đệm bao quanh vườn.
Điều làm hấp dẫn du khách là cảnh quan hoang sơ của núi rừng. Những cánh rừng đại ngàn của vườn Quốc gia YokDon thuộc hệ sinh thái rừng khộp của Tây Nguyên, mang đặc tính của rừng nhiệt đới Đông Nam Á. Vườn Quốc gia YokDon là nơi cư trú của 62 loài động vật, 196 loài chim, 46 loài bò sát, 13 loài lưỡng cư và 464 loài thực vật, phần lớn là Ngọc Lan. Trong số 56 loài động vật quý hiếm của Đông Dương, YokDon có tới 38 loài, 17 loài có tên trong sách đỏ thế giới.
Du khách tới đây sẽ có dịp khám phá nhiều điều kỳ thú, được cưỡi voi dạo chơi dưới tán rừng xanh mát, thưởng thức hương thơm của các loài lan rừng, quây quần bên ché rượu cần nghe già làng kể về những truyền thuyết của vùng đất này.
VƯỜN QUỐC GIA CHƯ YANG SIN
Chư Yang Sin là dãy núi có nhiều đỉnh núi, trong đó có đỉnh Chư Yang Sin cao nhất Đắk Lắk (2.442m), nằm cách thành phố Buôn Ma Thuột 60km về phía đông nam, diện tích 59.667ha với địa hình chia làm nhiều sườn dốc, khí hậu nhiệt đới núi cao tạo thành nhiều loại rừng khác nhau với nhiều loài động thực vật, trong đó có 44 loài động thực vật quí hiếm đã được ghi vào sách đỏ Việt Nam như: Quạ, Khách Đuôi Cờ, Hồng Hoàng, Bói Cá lớn,…
Chư Yang Sin đặc biệt hấp dẫn những du khách ưa thích mạo hiểm và những nhà nghiên cứu khoa học bởi những điều kỳ thú và sự phong phú của tài nguyên thiên nhiên.
HỒ LẮK VÀ BUÔN JUN
HồLắk cách thành phố Buôn Ma Thuột 56km về phía nam, theo Quốc lộ 27 đi Đà Lạt. Xung quanh hồ được bao bọc bởi những dải núi và rừng nguyên sinh, tạo nên cảnh quan rất ngoạn mục. Nước hồ xanh thẳm, mặt hồ được phủ kín bởi sen. Trên đỉnh đồi cao, con đường xoắn ốc men theo sườn đồi dẫn lên Biệt điện Bảo Đạirợp bóng cổ thụ. Du thuyền độc mộc trên hồ, thưởng thức đặc sản cá thác lác, du khách sẽ khó có thể quên kỷ niệm và cảm xúc về nơi này.
Nằm tựa mình bên hồ Lăk trong xanh thơ mộng, buôn Jun mang một vẻ đẹp nguyên sơ hiền hòa của buôn làng Tây Nguyên. Buôn Jun được ví như một thiếu nữ miền sơn cước, luôn giữ cho mình những bản sắc truyền thống đã được bảo tồn qua bao thế hệ.
Đến buôn Jun, nhìn những ngôi nhà sàn theo kiểu kiến trúc cổ truyền của đồng bào Tây Nguyên nép mình dưới bóng cây xanh, ngắm các thiếu nữ buôn làng chăm chỉ cần mẫn bên khung dệt thổ cẩm... du khách sẽ ngỡ như mình đang ngược dòng thời gian trở về với khung cảnh thanh bình, nên thơ đẫm chất huyền thoại đã từng in dấu ấn vào những bản trường ca của thuở xa xưa. Nếp sống và sinh hoạt của đồng bào dân tộc buôn Jun mang một nét đặc trưng riêng vốn đã được định hình từ hàng trăm năm trước.
THÁC KRÔNG KMAR
Nằm cách trung tâm huyện Krông Bông khoảng 3km, thác Krông Kmar bắt nguồn từ đỉnh cao nhất của dãy Chư Yang Sin hùng vĩ. Cạnh những cột nước của thác có những tảng đá bằng phẳng, có thể dừng chân ngắm cảnh hay tổ chức liên hoan nhẹ ngay giữa lòng suối. Thật bất ngờ và thú vị, nơi bắt đầu của dòng Krông Kmarcó một hồ nước rộng trong xanh và sâu hàng chục mét nằm giữa một rừng thông quanh năm tấu nhạc cùng tiếng hót thánh thót của chim rừng. Thú vị hơn nữa, du khách còn được cưỡi voi chinh phục đỉnh Chư Yang Sin, thưởng thức hương vị thơm nồng của rượu cần Tây Nguyên.
THÁC THỦY TIÊN
Thác Thủy Tiên là một thắng cảnh nên thơ nằm cách xã Tam Giang, huyện Krông Năng 7km về hướng đông bắc. Vẻ đẹp thơ mộng tựa nàng tiên nữ ẩn mình giữa núi rừng của thắng cảnh này đã làm đắm say biết bao du khách.
Thác gồm có 3 tầng, tầng thứ nhất có độ dốc thấp với những bậc lên xuống dễ dàng, lòng thác nhỏ, nước chảy êm đềm giữa những vòm cây xanh mát, hai bên lòng thác có nhiều rễ cây buông rũ xuống như những chiếc võng đu đưa trong gió ngàn. Tầng thứ hai của thác trải rộng với nhiều bậc đá, có chỗ nước tuôn trào trắng xóa, tạo nên những hồ nông, du khách có thể tắm mình thích thú với làn nước xanh mát, có nơi dòng thác đổ từ trên cao xuống những tảng đá, bọt nước tung trắng xoá tựa những đoá hoa thủy tiên kiêu hãnh khoe sắc hương dưới ánh mặt trời lung linh, rực rỡ. Ở tầng thứ ba, nước đổ thẳng dốc từ trên xuống tạo thành hồ khá sâu để cuối cùng hóa thành dòng nước chảy hiền hòa, trong vắt.
THÁC BẢY NHÁNH
Từ thành phố Buôn Ma Thuột dọc theo tỉnh lộ 1 về hướng tây bắc 35km, du khách đến buôn N’Drêch, xã Ea Hua, huyện Buôn Đôn, từ đây rẽ trái đi tiếp khoảng 1km nữa là đến thác Bảy Nhánh, một điểm du lịch sinh thái tuyệt vời của Đắk Lắk. Dòng Sêrêpôk chảy qua đây chia làm bảy dòng sông nhỏ chảy qua các tảng đá lớn tạo thành 6 hòn đảo nhỏ giữa các nhánh sông. Đứng trên cao quan sát, thác giống như bàn tay xòe ra giữa ghềnh thác trắng xóa. Nơi đây có bãi tắm đẹp và cũng là nơi lý tưởng để đua thuyền độc mộc. Nơi rộng nhất của thác khoảng 2km. Nhánh thứ nhất được che bởi rặng si già, nhánh thứ hai, thứ ba, thứ tư là ghềnh đá lớn, nhánh thứ năm có bãi sạn, đá cuội được nước bào mòn vô cùng xinh xắn, nhánh thứ sáu có bãi cát rộng, phẳng đẹp, sang nhánh thứ bảy là đến khu rừng nguyên sinh thuộc vườn Quốc gia YokDon.
Đến với thác Bảy Nhánh, du khách không những được tận hưởng cảnh quan thiên nhiên của vùng sinh thái nơi đây mà còn có thể tiếp tục tham quan vườn Quốc gia YokDon, nghe kể về truyền thống săn bắt, thuần dưỡng voi rừng, du thuyền hay cưỡi voi vượt dòng Sêrêpôk, giao lưu văn hóa cồng chiêng với đồng bào M’Nông, thưởng thức những món ẩm thực khác lạ như cơm đùm lá chuối, gà nướng lá bưởi, kiến vàng bóp cải xanh, sở hữu những món đồ mỹ nghệ truyền thống như: túi dệt thổ cẩm, các loại gùi,…
TRUNG TÂM DU LỊCH BUÔN ĐÔN
Cách thành phố Buôn Ma Thuột 42km, theo tỉnh lộ 1 về phía tây bắc, là địa danh nổi tiếng với nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng có một không hai ở vùng Đông Nam Á. Đây còn là nơi chung sống của cộng đồng đa sắc lộc với các phong lục, tập quán mang đậm dấu ấn văn hóa Gia Rai, Khơ Me, Lào, Ê Đê, M'Nông,…
Đến với Buôn Đôn, du khách có dịp cưỡi voi dạo chơi, dùng thuyền độc mộc xuôi dòng Sêrêpôk chiêm ngưỡng nét hùng vĩ của núi rừng, tham dự hội voi, thưởng thức tài nghệ của những chú voi tranh tài trong các cuộc thi: voi đá bóng, voi kéo gỗ, voi kéo co, voi chạy thi,… Ngoài ra, du khách còn được khám phá nét độc đáo của ngôi nhà cổ có tuổi thọ trên 100 năm làm hoàn toàn bằng gỗ, được sống trong ngôi nhà ấm cúng dựng trên những cành của cây si già, ăn món cá nướng thơm lừng, ngọt bùi, tham dự trò chơi bắn nỏ đầy thú vị.
KHU DU LỊCH HỒ EA KAO
Nằm các trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 12km đường ôtô về hướng đông, khu du lịch hồ Ea Kao với quy mô 120ha, được đầu tư xây dựng trên khu vực có địa hình tương đối đa dạng, có nhiều triền đồi, khe,… độ cao chênh lệch không nhiều.
Với những điều kiện thuận lợi về đất đai, cảnh quan thiên nhiên, vị trí địa lý, thảm thực vật, cây xanh, nguồn nước,… khu du lịch hồ Ea Kao là nơi lý tưởng để khách du lịch gần xa nghỉ ngơi, tận hưởng sự trong lành của thiên nhiên.
CÁC ĐIỂM KHÁC
Khu du lịch hồ Ea Nhai - Thắng Lợi
Từ thành phố Buôn Ma Thuột, theo Quốc lộ 26 đi khoảng 18km rồi rẽ trái khoảng 2km. Đây là hồ sinh thái đẹp được đầu tư xây dựng khá hoàn chỉnh, có các dịch vụ bơi thuyền, ca nô, câu cá, dã ngoại.
Khu du lịch sinh thái Ban Mê
Được xây dựng tại khu đồi thông Cư D'luê - phường Khánh Xuân, cách thành phố Buôn Ma Thuột 4km theo đường Quốc lộ 14 đi Bình Phước.
Buôn Ako D’hong
Nằm về phía bắc, cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 2km, buôn Ako D’hong là buôn văn hóa đẹp và nổi tiếng của thành phố, nơi cư trú của đồng bào dân tộc Ê Đê. Đây là buôn dân tộc thu hút nhiều lượt khách du lịch đến tham quan bởi nét văn hóa riêng và lòng mến khách của đồng bào.
CHÙA SẮC TỨ KHẢI ĐOAN
Chùa Khải Đoan được xây dựng vào năm 1951 - 1953 trong một khuôn viên thoáng rộng nằm ngay trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột, tên chùa được ghép bởi tên vua Khải Định và Đoan Huy hoàng hậu, là ngôi chùa sắc tứ cuối cùng của nhà Nguyễn.
Chùa có kiến trúc chữ tam, trước cổng là tam quan gồm 2 tầng với vòm cửa cao, chính điện rộng 320m2, sau nhà là hậu tổ. Chính điện thờ Phật Thích Ca có hai phần, nửa trước mang dáng dấp nhà dài Tây Nguyên nhưng kiến trúc cột kèo kiểu nhà rường Huế, nửa sau theo lối hiện đại. Gian bên phải đặt chiếc chuông đồng nặng 380kg được đúc năm 1954. Điện Quan Âm xây tách biệt có hình lục giác với sáu cột trang trí rồng mây.
THÁP CHĂM YANG PRONG
Là tháp Chăm duy nhất ở Tây Nguyên, thuộc địa bàn huyện Ea Súp, cách thành phố Buôn Ma Thuột 100km, được xây dựng cuối thế kỷ 13 thờ thần Siva.
Tháp là một khối kiến trúc bằng gạch nung đỏ trên nền cao bằng đá xanh. Tháp cao 9m, có đáy vuông, 3 mặt tường là 3 cửa giả, một cửa duy nhất quay về hướng đông, nơi ngự trị của các vị thần linh. Phía trên tháp mở rộng và thon vút hình tháp bút, khác biệt với kiến trúc của các tháp Chăm khác ở Trung bộ. Đây là nơi thu hút nhiều nhà nghiên cứu và khách du lịch khi đến với Đắk Lắk.
BIỆT ĐIỆN BẢO ĐẠI
Tọa lạc ngay trung tâm Buôn Ma Thuột, trong khuôn viên thoáng rộng rợp bóng cổ thụ. Đây từng là nhà ở của công sứ Pháp, sau là nhà ở và làm việc của vua Bảo Đại. Năm 1940, ngôi nhà được xây dựng lại theo lối kiến trúc Tây Nguyên kết hợp hiện đại, mái ngói, sàn gỗ, phía dưới là tầng hầm bê tông.
Khung cảnh tĩnh lặng dưới những tán cây cổ thụ, Biệt Điện ngày nay trở thành di tích lịch sử, bảo tàng trưng bày hiện vật lịch sử văn hóa các dân tộc Đắk Lắk.
BẢO TÀNG DÂN TỘC
Bảo tàng dân tộc Đắk Lắk gồm hai tầng, trưng bày các hình ảnh và hiện vật lịch sử, văn hóa đời sống của người dân tỉnh Đắk Lắk.
Tầng 1: Trưng bày những hiện vật, hình ảnh giới thiệu về đặc điểm tự nhiên của Đắk Lắk, về văn hóa hai dân tộc thiểu số: Ê Đê và M’Nông. Các mô hình nhà sàn, trang phục, dụng cụ sản xuất, tượng nhà mồ, các bộ sưu tập ché rượu, gùi, trái bầu…
Tầng 2: Trưng bày những hình ảnh, hiện vật về công cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của đồng bào Đắk Lắk.
Ngoài ra cũng trưng bày những hình ảnh về công cuộc sản xuất kinh tế sau ngày giải phóng: sản xuất nông công nghiệp, trồng cao su, cà phê, chế biến mủ cao su, làm thủy điện, các hoạt động y tế, du lịch…
ĐÌNH LẠC GIAO
Cây đa, bến nước, sân đình đã từ lâu thân thiết, gắn bó đối với mỗi người con đất Việt. Những người Việt đầu tiên đến lập nghiệp tại miền đất đỏ cao nguyên này đã dựng lên ngôi đình Lạc Giao vào năm 1928 để thờ cúng tổ tiên, thờ người lập làng, lập ấp, người có công đã hy sinh trên mảnh đất mới. Năm 1932, vua Bảo Đại ban sắc tứ phong Khai quốc công thần Đào Duy Từ là Thành hoàng của đình Lạc Giao. Ngày nay, đình còn thờ những người chiến sĩ cách mạng đã dâng hiến cuộc đời để giành và giữ nền độc lập cho Tổ quốc.
Ngôi đình mang kiến trúc của đình làng miền Trung, nhà thờ tổ kiểu chữ môn. Đình Lạc Giao còn là lời giao ước an cư lập nghiệp, giữa đồng bào các dân tộc trong công cuộc xây dựng miền đất mới, ý nghĩa tốt đẹp đó được tồn tại đến hôm nay.
BIA LẠC GIAO
Cách Ngã Sáu trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột chưa đầy 1km, dưới những tán cây râm mát, bia Lạc Giao tưởng nhớ trên 100 chiến sĩ Nam tiến đã anh dũng hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bốn cây đại nằm bốn bên che chắn tấm bia như tấm lòng biết ơn của người dân nơi đây với người đã khuất.
HANG ĐÁ ĐĂK TUÔR
Cách trung tâm xã Cư Pui huyện Krông Bông khoảng 6km, một di tích cách mạng thu hút nhiều sự quan tâm của du khách, hang đá Đăk Tuôr kỳ bí với hệ thống hang đá liên hoàn gồm nhiều lớp ăn sâu vào lòng núi, đủ chỗ ở cho hàng ngàn người. Trong suốt những năm kháng chiến chống Mỹ, hang đá Đăk Tuôr là nơi đóng quân của Tỉnh ủy Đắk Lắk và các đơn vị bộ đội chủ lực của tỉnh. Vùng căn cứ cách mạng này từng diễn ra nhiều sự kiện lịch sử, có ý nghĩa mở màn cho đại thắng mùa xuân năm 1975, thống nhất đất nước.
Trong các ngày lễ lớn, thanh niên các dân tộc trong tỉnh thường tổ chức những chuyến hành hương về nguồn, cùng nhau ôn lại những ngày tháng hào hùng của dân tộc.
NHÀ ĐÀY BUÔN MA THUỘT
Đến với Đắk Lắk, du khách không thể không đến thăm Nhà đày Buôn Ma Thuột khu di tích lịch sử cách mạng đã được nhà nước xếp hạng. Nhà đày Buôn Ma Thuột không những là chứng tích chiến tranh mà còn là nơi đào tạo và rèn luyện nên những chiến sĩ cách mạng kiên cường. Những chiến sĩ Cộng sản bị địch giam cầm ở đây đã trờ thành những người gieo mầm giống cách mạng lên mảnh đất cao nguyên.
CA ĐA - ĐỊA CHỈ ĐỎ
Từ trung tâm Thành phố Buôn Ma Thuột theo quốc lộ 26 về hướng đông khoảng 28km là đến Công ty cà phê Phước An, một đơn vị làm kinh tế đứng chân trên mảnh đất mà cách đây gần 60 năm là nơi thành lập chính quyền cách mạng đầu tiên ở cấp cơ sở của Đắk Lắk.
Cùng với Nhà đày Buôn Ma Thuột, Đình Lạc Giao, Hang đá Đăk Tuar, Đồn điền Ca Đa là di tích lịch sử cách mạng, là địa chỉ đỏ của tỉnh Đắk Lắk, đón hàng ngàn du khách đến thăm và tìm hiểu hàng năm. Công nhân viên chức - lao động Công ty cà phê Phước An hôm nay vẫn phát huy truyền thống Cách mạng tháng 8 năm 1945, lao động giỏi, lao động sáng tạo, góp phần phát triển kinh tế, xây dựng Đắk Lắk trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hội đua voi Buôn Đôn
Voi là biểu tượng của thiên nhiên, văn hóa của vùng bazan đất đỏ, là thế mạnh về du lịch, sinh thái, nhân văn của tỉnh miền núi cao nguyên Đắk Lắk. Nếu trước kia, theo lối cổ truyền, đồng bào chỉ dùng voi để phục vụ đi săn, chuyên chở, đi lại... thì ngày nay, con voi được huy động vào nhiều việc, mang lại những hiệu quả về nhiều mặt như du lịch, lễ hội, làm thay đổi ít nhiều cuộc sống ở một số buôn làng Tây Nguyên. Con voi từ một động vật hoang dã, được con người thuần dưỡng tinh khôn, sớm "gắn bó" với cuộc sống buôn làng.
Còn tại Buôn Đôn, Ea Súp - quê hương của các Gru săn voi nổi tiếng, những ngày Hội voi hàng năm là những ngày sôi động nhất. Vào tháng ba đầy nắng gió, trời biếc xanh, những chú voi thợ khôn ngoan nhất, "thiện chiến" nhất từ các buôn làng về tập trung tại xã Krông Na (Buôn Đôn) để cùng các nài voi tài giỏi tham gia ngày Hội voi truyền thống. Trên sân vận động nằm lọt giữa cánh rừng khộp, du khách được xem những chú voi biểu diễn nhiều động tác, trò chơi rất độc đáo. Trước khi vào những trò diễn chính ta được xem những chú voi diễu hành, tiến qua lễ đài và quỳ chào khán giả một cách rất "lễ phép". Môn thể thao hùng dũng nhất là đua voi, tiếp đến là voi kéo vật nặng, voi ném gỗ. Trò chơi thể thao ngộ nghĩnh nhất, làm cho người xem khoái chí như voi kéo co với người, voi đá bóng, voi nhảy múa theo điệu kèn đing năm... Cũng không gì hứng thú bằng khi không phải vào rừng sâu vất vả để mục sở thị cảnh săn bắt voi rừng mà ngay trong những ngày lễ hội, ta được quan sát từng động tác săn voi, những dụng cụ bắt voi, những cuộc rượt đuổi... để hình dung ra cuộc xung trận hoành tráng của những Gru trong bao lần đi săn voi rừng. Đó là tiết mục biểu diễn và cũng là một bảo tàng sống về nghề săn voi khi cùng một lúc ta được trông thấy những con voi thợ dũng mãnh, những Gru đầy kinh nghiệm, những dụng cụ săn bắt voi có nhiều công năng khác nhau như tù và, dây quăng tròng, búa tốc độ... để có thể hình dung được một phần văn hóa mưu sinh của đồng bào các dân tộc. Tại bến nước Buôn Trí, trên dòng Sêrêpôk, du khách được thưởng thức một môn thể thao đầy ngoạn mục là thi voi bơi. Khi có hiệu lệnh, những chú voi chạy ào xuống nước, gắng sức bơi vượt sông trong tiếng cổ vũ, la hét hào hùng của cổ động viên. Những chú voi khác đón du khách lên bành và băm bổ lội suối,vừa xem thi đấu thể thao dưới nước của voi, vừa ngoạn cảnh ven sông tận hưởng vẻ đẹp của bên Vườn Quốc gia YokDon.
Hội voi và liên hoan cồng chiêng là những cuộc trình diễn, giới thiệu văn hóa truyền thống ấn tượng nhất của cư dân Tây Nguyên, là sinh hoạt lễ hội không thể thiếu hàng năm. Những chú voi hiền lành, ngoan ngoãn, luôn gắn bó với con người, buôn làng, sẽ đưa ta về với quá khứ để cảm nhận đâu đây tiếng chiêng vang, tiếng voi gầm, tiếng thét oai hùng của các chàng trai dũng sĩ trong sử thi Đam San, Xing Nhã; cho ta được trở về cội nguồn văn hóa hoang sơ, hồn nhiên, đầy ắp tính nhân văn của con người và mảnh đất nơi đây.
Nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng
Không ai biết nghề này ở Buôn Đôn bắt đầu từ lúc nào, cũng không ai tính được đã có bao nhiêu con voi rừng bị người Buôn Đôn bắt và thuần dưỡng. Ba ngàn, năm ngàn hay 1 vạn, 2 vạn? Người ta chỉ biết nghề săn voi đã vinh danh cho biết bao nhiêu già làng, đó là: Cụ Y Pui (mất năm 1985) là một Gru (vua săn bắt voi) trong bản, đã quăng tròng kéo về 450 con voi. Cụ Y Păng Eban, trong cuộc đời 80 năm của mình đã bắt được 300 con. Cụ Ykun Niê bắt được 240 con. Nay Phao bắt được 32 con. Còn những người khác chỉ bắt được từ bốn đến năm con. Voi đối với người dân Buôn Đôn thân thuộc đến nỗi trở thành đơn vị đo lường trao đổi trong đời sống thường ngày. Chả thế mà ngôi nhà gỗ của người Lào được tính bằng số tiền của 12 con voi có cặp ngà dài (trị giá một con chưa tính cặp ngà giá trao đổi từ 60 -70 triệu đồng).
Có một điều lạ là nghề săn bắt thuần dưỡng voi rừng nguy hiểm là thế nhưng ở Buôn Đôn chưa có người nào làm nghề này lại bị voi rừng quật chết, chỉ có một số voi rừng đã được thuần dưỡng, sau một thời gian dài sống chung với người, bỗng quay ra làm phản, hại chủ.
Do môi trường bị xâm hại, voi rừng ngày càng ít dần, vì thế nghề săn bắt voi ở Buôn Đôn không còn thịnh hành như trước.
Lễ bỏ mả
Một số tộc người sống ở Tây Nguyên không có tục thờ cúng tổ tiên và những người đã chết, vì vậy mà họ có lễ bỏ mả - lễ vĩnh biệt người qua đời lần cuối cùng để tiễn hồn ma người chết về "buôn của người chết" và không bao giờ nhắc tới nữa.
Sau khi chôn người quá cố sớm nhất là 1 năm, muộn nhất là 7 năm thì người ta tiến hành lễ bỏ mả. Khi đã lo đủ rượu, gạo, thịt dâng cúng từ 2 - 3 ngày thì gia đình của người chết đứng ra thực hiện lễ bỏ mả và được cộng đồng cùng tham gia. Lễ bỏ mả thường được diễn ra hàng năm khi ruộng rẫy đã thu hoạch xong, vụ mùa gieo tỉa chưa tới, là một trong những lễ quan trọng dành cho người quá cố.
Người đứng ra thực hiện lễ bỏ mả có khi là một gia đình, một dòng họ, có khi cả buôn. Nhà giàu, dòng họ lớn thì giết nhiều trâu bò, chuẩn bị nhiều ché rượu. Nhà nghèo thì cũng phải có đủ rượu, thịt để cung cấp cho ăn uống và chia phần cho người dự lễ.
Đối với lễ bỏ mả tập thể người ta không dùng chiêng vì chiêng là riêng của một gia đình, một dòng họ. Nếu đem dùng chung thì linh hồn sẽ theo chiêng về với người có chiêng, không có lợi. Trình tự lễ bỏ mả được tiến hành như sau:
Ngày thứ nhất : Thanh niên lên rừng chặt cây làm nhà mồ mới, dựng cột Kút, cột Klao Khi nhà mồ, tượng và các chi tiết khác dựng xong, và gia chủ đã chuẩn bị đủ rượu cần, lễ vật để cúng, thầy cúng mặc trang phục nghiêm chỉnh, ngồi bên ché rượu, hướng về phía đông và cầu khấn hồn người chết lâm ly thống thiết và thông báo cho hồn đây là lần cúng cuối cùng. Tiếng trống rộn rã nổi lên. Người ta nhóm một đống lửa trên mộ. Ngọn lửa đó sẽ cháy suốt ngày đêm. Người nhà trồng hai cây chuối ở đầu mộ và cuối mộ rồi thả một con gà vào rừng. Con gà tượng trưng cho linh hồn người chết được tự do bay đi. Tế lễ xong, cả buôn ngồi ăn uống ngay trên bãi cỏ bên nấm mồ. Đêm ấy là đêm vui hoàn toàn với mọi người. Trăng sáng, tiếng trống rền vang, thanh niên vui chơi trò chuyện và nhảy múa. Nam nữ hát đối đáp giao duyên, người già khề khà uống rượu, trò chuyện tới khuya, có khi thâu đêm suốt sáng.
Ngày thứ hai : Từ sớm người ta đã thịt heo, nhà giàu thì mổ trâu, rượu bày la liệt hàng chục ché nối dài. Tất cả cần rượu quay về phía đông. Xương hàm dưới của trâu treo ở cột Klao như chứng tích của sự phong lưu. Lễ cúng diễn ra tương tự như ngày hôm trước nhưng lời cúng hoàn toàn khác, bởi lễ cúng này là vĩnh biệt hồn người chết, từ hôm nay hồn đã về "buôn của người chết", mọi việc thăm viếng, dâng cúng sẽ chấm dứt vào ngày hôm nay. Cúng xong cả buôn lại dự tiệc trong không khí tưng bừng náo nhiệt vui vẻ.
Ngày thứ ba: Đây là ngày gia chủ tỏ lòng biết ơn dân bản. Tiệc rượu tổ chức bên bếp lửa. Già làng tế lễ tại nhà gia chủ. Sau đó người thân, bạn bè người quá cố kéo nhau ra suối tắm gội với mục đích gột rửa hết mọi ràng buộc với người đã mất. Người trong buôn lại ăn uống, vui vẻ ca hát, nhảy múa uống rượu thâu đêm suốt sáng. Những người liên quan tới người đã mất như vợ (hoặc chồng) sẽ bước vào cuộc sống hoàn toàn mới kể từ ngày hôm nay.
Lễ cơm mới của người M'Nông
Ngày xưa, người M'Nông sống dựa vào nương rẫy, chăn nuôi và săn bắt thú rừng, chim cá, trong đó nguồn sống vẫn chủ yếu dựa vào cây lúa rẫy. Tháng sáu và tháng bảy là những tháng giáp hạt, thiếu đói, đồng bào dựa vào thức ăn hái lượm, săn bắt. Sau hai tháng chỉ ăn củ mài, trái dẻ thì đến đầu tháng tám lúa rẫy bắt đầu chín, dù chưa ăn bụng đã thấy no. Đó là lúc bà con tuốt lúa về ăn cơm mới. Phong tục này đã có từ lâu, đã được nhắc nhở bằng câu ca dao: "Saba m'he ran tuih ran sung" (ăn cơm mới phải cúng ơn dao, rìu).
Họ tuốt lúa khi vừa chín vàng, hay còn một chút màu xanh, luộc chín rồi phơi khô. Loại lúa này khi giã hạt gạo hơi nát nhưng hương vị thơm ngon. Bữa ăn cơm mới đầu tiên không nấu canh rau bầu bí, phải ăn những thức ăn "đặc sản" như chim, cá, gà, lợn và mời đông đủ bà con xóm làng tới dự. Đặc biệt, phải có ché rượu ủ gạo thật ngon để cúng thần lúa. Rượu thịt đầy đủ, tươm tất để bù đắp thời gian thiếu ăn phải lặn lội vào rừng tìm trái dẻ, đào củ mài.
Lễ ăn gạo mới thường tổ chức vào bữa ăn tối. Chủ nhà lo nấu một nồi cơm thật to, cứ tính mỗi hộ được mời phải được ăn một chén bầu (khoảng hai bò gạo). Trong làng có bao nhiêu hộ thì chủ nhà phải mời cho hết, vì khi làm rẫy, làm nương nhờ bà con giúp đỡ mới có kết quả. Mời bà con ăn bữa cơm gạo mới để tỏ lòng biết ơn đã giúp gia đình khi trỉa lúa, dọn cỏ, tuốt lúa.
Khi bà con đã đến đông đủ, chủ nhà bưng một ché rượu đổ nước sẵn, hút ra một ít rượu đầu để cúng cơm, sau đó giết một con gà to lấy huyết bỏ vào chén bầu, hòa với rượu cần rồi đặt lên một cái nia ở trên sạp giường - nơi dọn cơm đãi khách. Người ta dùng lá chuối tươi lót trên nia, đổ cơm, thịt gà vào đấy và lấy một tô gạo có cắm đèn sáp ong, để cúng. Tất cả dụng cụ sản xuất có trong nhà như dao, rựa, rìu, cào cỏ... đều mang ra bỏ trên cái nia. Chủ nhà đặt trên lưỡi những dụng cụ đó một ít cơm, huyết lợn, huyết gà, rượu cần tỏ ý thết đãi để đền ơn dụng cụ trước khi con người được ăn cơm mới. Có dụng cụ mới có nương rẫy xanh tươi, mang lại cuộc sống ấm no, do đó, dụng cụ lao động "ăn" trước, người ăn sau. Lúc đó thì chủ nhà và bà con tham dự khấn vái: nay ta cho rựa, dao, cào, rìu ăn cơm mới, hãy ăn cho thật no cứng. Khi ta sử dụng, chặt đá không mẻ, chặt cây không méo, sang năm mới thu hoạch lúa nhiều hơn.
Khấn vái xong, chủ nhà dọn cơm và thức ăn trên lá chuối tươi rồi mời bà con cùng ăn. Mỗi hộ thường chỉ một người thay mặt đến "dự bữa". Những người không đi, chủ nhà lấy cho mỗi hộ một bầu cơm to và một ít thịt, cá gửi mang về làm quà để ai cũng được hưởng kết quả lao động. Ăn xong, chủ nhà mời bà con uống rượu cần. Trước khi uống rượu, chủ nhà lấy chút rượu cần và huyết gà phết vào kho lúa, bàn thờ, đá bếp để tạ ơn thần linh đã phù hộ cho gia đình trong năm qua.
Hoa viên Buôn Ma Thuột: được xây dựng khang trang, sạch đẹp tại trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột, đặc biệt rất gần với các khách sạn, nhà nghỉ trong thành phố. Bạn có thể tản bộ tham quan phố xá, thư thả đến Hoa viên, với công trình được thiết kế xây dựng theo kiểu hiện đại kết hợp với nét đặc trưng của vùng Tây Nguyên, có nhiều dịch vụ vui chơi giải trí: vườn hoa, vườn chim thu nhỏ, động nhân tạo, quán cà phê giải khát,… rất phù hợpcho thư giãn sau khi thực hiện chuyến đi du lịch xa hay những buổi tối thời tiết nóng nực du khách sẽ thấy thoải mái và dễ chịu.
Đồi thông Buôn Ma Thuột: Nằm trên Quốc lộ 27 đi Đà Lạt, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 5 km về hướng đông. Đây là điểm du lịch lý tưởng rộng rãi, thoáng mát, trữ tình với khu rừng thông lâu năm thuận tiện cho việc tổ chức dã ngoại, cắm trại, vui chơi cho mọi lứa tuổi. Đến đây vào những dịp lễ, tết du khách sẽ được tận hưởng những ngày nghỉ lý thú, bổ ích với những dịch vụ tận tình chu đáo, an ninh trật tự tốt.
Công viên nước DakLak: Cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 4 km về hướng đông bắc, công viên nước DakLak là nơi có nhiều trò chơi nhất hiện nay tại khu vực miền Trung Tây Nguyên. Với hệ thống thác trượt nước, nhiều trò chơi cảm giác mạnh, dòng sông lười bao quanh khuôn viên dài 487 m, khu vui chơi thiếu nhi, hồ tạo sóng...
Công viên nước DakLak là một địa điểm vui chơi bổ ích, lành mạnh, ấn tượng và an toàn với chi phí hợp lý.
Thưởng thức cà phê:
Đến Đắk Lắk, nếu có thời gian rảnh rỗi du khách có thể thư giãn với những quán cà phê. Nơi có những quán cà phê thật sang dành cho khách ngoại quốc và những người muốn có một không gian yên tĩnh như: Khách sạn Thắng Lợi, Cao Nguyên, Dam San, Bạch Mã, Thiên Mã, Hai Bà Trưng, Tây Nguyên... hoặc đến với phố cà phê nằm trên đường Lê Thánh Tôn để thưởng thức hương vị đậm đà của cà phê Buôn Ma Thuột đã nổi tiếng từ lâu. Đối với những đôi bạn trẻ muốn tìm không gian riêng để tâm sự xin mời bạn hãy hòa mình trong những cảnh trí trữ tình với suối vang tiếng nhạc của các quán cà phê như: Hàn Thuyên, Rainny,Valentin… Quy hoạch phát triển Du lịch Mục tiêu và định hướng phát triển.
- Phấn đấu đưa ngành du lịch Đắk Lắk trở thành một trong những trọng điểm phát triển du lịch quốc gia và quốc tế. Đẩy mạnh tốc độ tăng doanh thu của ngành đạt 20% thời kỳ 2006 - 2010 và đạt 15 - 16% thời kỳ 2011 - 2020.
- Đẩy mạnh khai thác tiềm năng du lịch sinh thái và nhân văn để xây dựng ngành du lịch thành một ngành kinh tế có đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
- Phát triển đa dạng các loại hình du lịch: du lịch sinh thái, cảnh quan; du lịch văn hóa, lịch sử; du lịch lễ hội, thể thao, nghỉ dưỡng...
- Phát triển du lịch tỉnh Đắk Lắk trong sự hòa nhập và gắn kết chặt chẽ với du lịch các tỉnh Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ và thành phố Hồ Chí Minh, tạo các tour du lịch liên hoàn, thống nhất, với địa bàn du lịch hấp dẫn có sức thu hút du khách trong và ngoài nước.
- Phát triển du lịch phải gắn với việc đảm bảo an ninh chính trị, quốc phòng và trật tự an toàn xã hội.
Hình thành và phát triển các cụm du lịch
Đến năm 2010 - 2020, trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk phát triển 4 cụm du lịch và xây dựng các dự án du lịch trọng điểm sau:
· Cụm du lịch thành phố Buôn Ma Thuột - Krông Ana: bao gồm các điểm du lịch như: thắng cảnh thác Dray Nur, thác Gia Long, Dray H'Linh, khu lâm viên Ea Kao, khu sinh thái Ban Mê, công trình thuỷ điện Buôn Kuôp; các điểm du lịch văn hóa, lịch sử như: nhà đày Buôn Ma Thuột, nhà bảo tàng dân tộc Đắk Lắk, sa bàn chiến thắng Buôn Ma Thuột, đình Lạc Giao, chùa Sắc Tứ Khải Đoan; du lịch các làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống, tham quan bến nước người Ê Đê ở phường Tân Lập, xã Ea Tu; du lịch vườn cà phê ở các vùng lân cận gần thành phố v.v....
· Cụm du lịch Buôn Đôn - Ea Súp - Cư M'gar: ở đây có vườn quốc gia Yook Đôn, các cánh rừng nguyên sinh, có thể khai thác các loại hình du lịch dã ngoại, nghiên cứu động thực vật; tham quan các làng văn hóa, bến nước, tham gia lễ hội đua voi, lễ hội văn hóa của các dân tộc Ê Đê, M'Nông, Lào, Gia Rai...
· Cụm du lịch hồ Lắk - Krông Bông và vùng phụ cận: Bao gồm các điểm du lịch hồ Lăk, nhà Cựu hoàng Bảo Đại, hồ thuỷ điện buôn Tua Srah và các thắng cảnh thác nước Krông Kmar, hang đá Đăk Tuor, khu căn cứ cách mạng...
· Cụm du lịch Krông Păk - Ea Kar - Krông Năng - M'Đrăk. Phát triển các điểm du lịch như hồ Ea Nhái (Krông Păk), khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô, (Ea Kar), thác đá Dray Nao và trang trại nông nghiệp sinh thái M'Đrăk .
Các giải pháp chủ yếu phát triển du lịch
· Huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng du lịch.
· Khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp, cá nhân trong tỉnh Đắk Lắk, các tỉnh thành trong cả nước có tiềm lực kinh doanh du lịch lớn tham gia phát triển du lịch theo qui hoạch.
· Tăng cường quan hệ hợp tác, liên kết với các công ty nước ngoài.
· Tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động du lịch.
· Nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông, điện, nước, các cơ sở dịch vụ; xây dựng mới các tuyến đường đến các điểm du lịch và đường trong nội khu, tạo thuận lợi cho việc đi lại, tham quan.
· Đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên có chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ hiểu biết văn hoá, lịch sử, có ngoại ngữ, biết giao tiếp văn minh lịch sự để quản lý tốt, hướng dẫn, thuyết minh, hấp dẫn du khách.
· Tăng cường hoạt động tiếp thị, tuyên truyền quảng bá về du lịch Đắk Lắk thông qua các hội chợ, triển lãm du lịch trong nước và quốc tế, phát hành các tập gấp, ấn phẩm, băng đĩa hình, thông tin trên mạng internet.
· Khuyến khích các công ty mở thêm những chi nhánh du lịch Đắk Lắk ở Hà Nội, Đà Nẵng, Khánh Hoà, TP. Hồ Chí Minh v.v... nhằm tạo điều kiện cho du khách có thể dễ dàng liên hệ tìm được tour du lịch yêu thích.